GIỚI THIỆU CHUNG VỀ XÃ KHÁNH VÂN
I. Mảnh đất và con
người xã Khánh Vân.
Khánh Vân là xã nằm ở
phía Tây Bắc huyện Yên Khánh, phía Tây Bắc giáp xã Khánh Cư, Đông Bắc giáp xã Khánh Hải, Đông
Đông Nam giáp Thị trấn Yên Ninh; phía Nam giáp xã Yên Phong, Tây Nam giáp xã Khánh Thịnh, Tây Bắc giáp xã Khánh
Dương huyện Yên Mô được ngăn cách bởi sông Vạc. Diện tích tự nhiên 592,69 ha, diện tích đất canh tác 450 ha, số dân
6820 người, với tổng số 1985 hộ dân (năm 2022); xã Khánh Vân ở vị trí tiếp giáp
trung tâm của huyện Yên Khánh.

Khánh Vân được hình thành và có cư dân
sinh sống từ khá sớm; xã Khánh Vân trước đây là biển cả, do phù sa bồi đắp hàng
năm hình thành các doi đất và có cư dân sinh sống cách đây hàng ngàn năm. Đến
thời Lê niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471) khi đất bồi đã rộng vua Lê Thánh Tông
cho đắp đê từ cửa biển Đại Nha (xã Khánh Cường ngày nay) đến Tiểu Nha (xã Yên
Lâm huyện Yên Mô ngày nay) gọi là đê Hồng Đức, từ khi có đê ngăn nước mặn các
cư dân đến sinh sống ngày một đông đúc, hình thành các làng xã và các dòng họ. Thôn xóm hành chính
là các địa danh có từ xa xưa như: Vân Lai, Lưu Mỹ, Đông Thịnh, Phúc Hà, Thông Xuân, La Bình, Phú Mỹ, Đông
Nội. Hiện nay có 14 xóm (Vân Tiến gồm có xóm 1,
2, 3, 4, 5, 6; Xuân Tiến gồm có xóm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8).
Từ khi hình thành đến nay, xã Khánh Vân có
nhiều thay đổi về địa giới hành chính và tên gọi khác nhau. Từ năm 1906, Yên
Khánh có 8 tổng gồm 8 xã phường; trong đó có 3 xã Phú Mỹ, La Bình, Yên Vân. Năm
1946, huyện Yên Khánh tổ chức lại địa giới hành chính gồm 20 xã, trong đó 3 xã
Phú Mỹ, La Bình, Yên Vân sát nhập thành 1 gọi là xã Yên Vân. Năm 1949, huyện
Yên Khánh tiếp tục tổ chức lại địa giới hành chính từ 20 xã thành 07 xã. 3 xã
Xuân An (Khánh Cư), Vân Hải (Khánh Hải) và Yên Vân sát nhập thành 1 gọi là xã Khánh
Vân. Tháng 7 năm 1956, xã Khánh Vân được tách thành 3 xã Khánh Cư, Khánh Vân,
Khánh Hải thuộc huyện Yên Khánh. Đến năm 1977, thực hiện Nghị định số 125 của
Hội đồng bộ trưởng, Khánh Vân cùng 9 xã phía bắc sát nhập với huyện Yên Mô
thành huyện Tam Điệp; tháng 9/1994, huyện Yên Khánh được tái thành lập, theo
Nghị định 59/CP, ngày 4/7/1994 của Chính phủ xã Khánh Vân lại thuộc huyện Yên
Khánh như ngày nay.
Địa
hình và đồng đất Khánh Vân tương đối bằng phẳng, trước đây ruộng xấu, bậc thang, nhưng qua nhiều đời
canh tác ngày nay đã trở nên mầu mỡ, tốt tươi; có vùng đồng mầu, lúa màu chiếm
gần 2/3 tổng diện tích đất canh tác; gần 1/3 ruộng chân 2 lúa. Năm 1993 bình quân ruộng đất
tính theo nhân khẩu: Hợp tác xã Vân Tiến
768 m2, Hợp tác xã Xuân Tiến 756m2. Khánh Vân cũng như các xã trong huyện Yên Khánh nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa; trong năm thời tiết khí hậu bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông
tương đối rõ rệt.
Khánh Vân có hệ thống giao thông thủy bộ
thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển, sản xuất và phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Phía Tây có con sông Vạc chảy
theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, phân cách giữa 2 xã Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương (Yên Mô) với xã Khánh
Vân (Yên Khánh). Đây là đường giao thông thủy ngày đêm thuyền bè tấp nập vận
chuyển vật liệu hàng hoá từ miền ngược về miền xuôi, từ thị xã Ninh Bình xuống vùng biển
Kim Sơn. Ven sông có một số bến bãi thuận tiện cho tàu, thuyền cập bến, tập kết
vật liệu xây dựng, phân bón... như bến đò Lá, bến Đầm Vân. Phía Đông có đường
quốc lộ 10 (nay đường ĐT
483) chạy qua theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam, phân cách ranh giới giữa xã Khánh Hải và Khánh
Vân; phía Tây có đường 482C, phía Nam có
đường ĐT 482G. Đây là những trục giao thông quan trọng, huyết mạch của tỉnh và
quốc gia đã được nâng cấp mở rộng. Các phương tiện tham gia giao thông ngày đêm
đi lại tấp nập như ô tô, xe máy, xe đạp và các phương tiện khác...)
Dọc xã có trục giao
thông chính từ Đông sang Tây, từ đường 10 đầu xã đến bến đò Lá cuối xã, được nâng cấp, bê tông, rộng 5,5m. Đường liên thôn, liên
xóm và các dong ngõ đều được mở rộng và bê tông hoá; một số thôn xóm đã có tuyến đường bê
tông ra đồng, nghĩa trang, kết hợp với kiên cố hóa kênh mương, tạo cho cảnh quan, môi trường sạch
đẹp, văn minh rất thuận lợi cho việc đi lại, sản xuất, vận chuyển nhanh chóng,
dễ dàng cho sinh hoạt, giao lưu cả ngày và đêm. Tổng số chiều dài đường nông
thôn toàn xã gần 20 km, phía trước và sau
khu dân cư có 2 con ngòi tưới, tiêu lớn liên xã là
ngòi 30 và ngòi Đầm Vân chảy dọc theo xã đổ ra sông Vạc. Ngoài ra, có hệ thống kênh nổi được kiên cố hóa để tưới cho toàn bộ
ruộng màu và 2 lúa; có trạm bơm Đầm Vân
chống úng gồm 6 tổ máy công suất 24000m3/giờ.Trạm bơm tưới toàn xã gồm 3 tổ máy công
suất 4000m3/giờ.
Với đặc điểm đất đai, khí hậu và hệ thống
giao thông thuận lợi, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, chủ động được nước tưới, tiêu nên Khánh
Vân có điều kiện để tăng vụ sản xuất, canh tác nhiều loại cây trồng có giá trị
kinh tế cao.
Người dân Khánh Vân sinh sống bằng nghề chính là nông nghiệp (trồng lúa, trồng màu, trồng
nấm và chăn nuôi gia súc, gia cầm); Khánh Vân có diện tích cây thuốc lào hàng
năm từ 70 đến 100 hecta, đây là cây trồng được nhân dân gieo trồng từ rất lâu
đời, là cây có giá trị kinh tế cao thu nhập gấp 5 đến 7 lần so với cấy lúa, đem
lại nguồn thu nhập lớn cho nhân dân mà các xã khác trong huyện không có. Ngoài làm ruộng, Khánh
Vân có nghề truyền thống lâu đời như làm gạch, nung vôi; một số nghề thủ
công như nghề mộc, mây tre đan; đặc biệt là đan thúng nổi tiếng trong
vùng, ngày nay câu ca, dân gian còn truyền lại.
“Chiếu Bồng Hải, vải Yên Ninh
Thúng La Bình, Gạch Phúc Nhạc ”
Hàng năm cung cấp cho thị trường hàng nghìn sản phẩm, trị giá hàng trăm triệu đồng,
mang lại thu nhập đáng kể cho người lao động. Nhân dân La Bình còn lưu truyền lại cho con cháu đi xây dựng gia
đình câu ca dao:
“Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm thúng hồng thôn La”
Tuy vậy, một số nghề truyền thống có từ
lâu đời nhưng do thời gian, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
bị mai một; ngày nay có chủ trương của Đảng, Nhà nước, chính sách khuyến khích
sản xuất, công nghiệp, dịch vụ mới đang được phát triển, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, đời sống và tăng thu nhập cho nhân dân.
Khánh Vân từ xa xưa là đất hiếu học,
chuộng văn chương, trọng đạo lý; hầu hết các thôn trong xã đều có các tư văn,
hội đồng môn. Từ thời kỳ nho học luôn coi trọng giáo dục con em, thế hệ trẻ.
Nhân dân Khánh Vân có truyền thống uống nước nhớ nguồn, các thôn, làng đều có
đền thờ Thành hoàng, người có công với nước, với dân; có công mở mang vùng đất
và chống giặc ngoại xâm; nhiều đền thờ là địa điểm hoạt động cách mạng trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, có 4 đền, chùa được xếp hạng di tích lịch sử
văn hóa cấp tỉnh gồm có: đền Lưu Mỹ, đền Trần Tướng, chùa, đền và phủ làng Phú
Mỹ. Hàng năm vào các lễ tiết có dâng hương, tế lễ; 3 năm 1 lần vào các năm Tý,
Ngọ, Mão, Dậu âm lịch có tổ chức hội làng (thôn) và liên thôn, để cầu cho quốc
thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Trải qua nhiều biến cố lịch sử, mỗi địa
danh, thôn xóm, con ngòi, dòng kênh… đoạn đường ở Khánh Vân không chỉ là những
kỷ niệm của mỗi người mà ở đó còn chứa đẫm mồ hôi, nước mắt của các thế hệ
người dân trong việc chế ngự thiên nhiên để sinh tồn, phát triển mà còn thấm
máu trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược bảo vệ quê hương, đất nước.